Trường Phái Lục Bát Cung Trầm Tưởng


Du Tử Lê

Là người Việt Nam, ai cũng biết lục bát là một thể thơ truyền thống, đặc biệt của riêng văn học Việt Nam. Nhưng, chúng ta vẫn phải đợi tới khi Nguyễn Du Tiên sinh chọn thể thơ lục bát để ký thác tâm sự mình, qua trường thiên “Ðoạn Trường Tân Thanh,” (dân gian quen gọi là “Truyện Kiều,”) lúc đó, lục bát mới chính thức trở thành một thể thơ có đầy đủ tính văn học ở mọi khía cạnh.

Ðặt qua một bên nghệ thuật tả cảnh, tả tình, tâm lý, triết lý, tâm sự, phản ảnh xã hội, thời đại sống của mình v.v… căn bản lục bát của Nguyễn Du Tiên sinh là “kể chuyện.” Vị cha già của lục bát Việt Nam, (nếu tôi được phép gọi như vậy,) là một nhà văn kể chuyện (Story Teller) cực kỳ tài hoa, uyên bác.


Du Tử Lê và Cung Trầm Tưởng trong ngày Đọc Tranh Du Tử Lê

Trường Phái Lục Bát Cung Trầm Tưởng

Nói cách khác, Lục bát của Nguyễn Du Tiên đã sinh trở thành “khuôn vàng thước ngọc” ảnh hưởng vào dòng chảy lục bát của văn học Việt mấy trăm năm sau…

Tuy nhiên, phải đợi tới giữa thập niên 1940, khi Huy Cận, tác giả “Lửa Thiêng” xuất hiện, ông đã cho lục bát một gương mặt, một chiếc áo mới. Nói cách khác, lục bát Huy Cận, đóng vai trò chấm dứt chu kỳ lục-bát-kể-chuyện kéo dài từ thời Nguyễn Du.

Lục bát Huy Cận chẳng những không nhắm mục đích kể lể thứ tự các sự việc mà, nó cũng không mô tả một biến chuyển tâm sinh lý nào. Nó là một chuỗi hình ảnh nối tiếp nhau qua sự tương tác rất máu thịt với chữ, nghĩa. Tôi muốn nói tới nỗ lực vận dụng những con chữ một cách tân kỳ, sáng tạo. Ðể tự thân hình ảnh và, chữ nghĩa sẽ mang tới cho người đọc những cảm ứng sâu, rộng khác nhau, tùy theo tâm hồn, trình độ mỗi người.

Nhưng xuyên suốt cõi giới lục bát của Huy Cận, trước sau vẫn chỉ là một tinh thần hoài cổ, đúng như tinh thần hai câu thơ nổi tiếng của ông:

Một chiếc linh hồn nhỏ
Mang mang thiên cổ sầu.

(Trích “Ê Chề,” Huy Cận.)

Theo tôi, đó là những nét đặc thù trong lục bát Huy Cận. Còn lục bát Cung Trầm Tưởng thì sao?

Tôi không biết có phải định mệnh đã mang đến cho sinh hoạt văn chương của chúng ta, một hạnh ngộ giữa lục bát Huy Cận và, lục bát Cung Trầm Tưởng? Hay đó là “bước trùng” của hai tài thơ lớn ở thể thơ truyền thống, đặc thù Việt?

Với tôi, Cung Trầm Tưởng không chỉ đi tiếp con đường lục bát Huy Cận mà, họ Cung còn đẩy vận hành của một chu kỳ lục bát tới chỗ rốt ráo của nó. Hai chữ “rốt ráo” tôi dùng ở đây, xin hiểu theo nghĩa Cung Trầm Tưởng, bằng vào tài hoa và trí tuệ của mình, đã hoàn tất một thời kỳ lục bát. Đem lục bát ra khỏi bóng rợp của giai đoạn lục-bát-kể-chuyện, kéo dài mấy trăm năm, kể từ khởi điểm “Truyện Kiều” của Nguyễn Du.

Tuy vẫn xây dựng lục bát của mình trên căn bản nhịp chẵn: 2- 2 – 2 cho câu sáu và, 2 – 2 – 2 – 2 cho câu tám:

“Bù em / góp núi / chung đồi (2-2-2)
Thiêu nương / đốt lá / cũng rồi / hoang sơ” (2-2-2-2)
(“Kiếp sau,” CTT.)

Hoặc nhịp đều 3-3 cho câu sáu, 4-4 cho câu tám:

“Ôi thông xanh / ôi hồng đào (3-3)
Phong rêu mấy thuở / hồn nào không đau” (4-4)
(“Thu ngây,” CTT.)

Nhưng lục bát Cung Trầm Tưởng đã vượt khỏi cái không gian núi, đồi, cồn, bãi, sông, nước, mây, gió, trăng, sao…của lục bát Huy Cận:

Bỗng dưng buồn bã không gian
Mây bay lũng thấp giăng màn âm u

(H.C.)

Hay:

Canh khuya tạnh vắng bên cồn
Trăng phơi đầu bãi, nước dồn mênh mang.

(H.C.)

Theo tôi, những hình ảnh như núi, đồi, cồn, bãi, sông, nước, mây, gió, trăng, sao… đó, nếu không đi liền với những liên tưởng là những hình ảnh, những biểu-ngữ (signifier) hoặc những hoán dụ (metonymy) thì chúng chỉ là những sáo ngữ, đã bị “cliché.” Chúng thiếu sinh khí. Rời xa đời thường. Không cùng nhịp đập thời đại. Không chủ thể. Và, khi toàn bộ hồn vía bài thơ chỉ bảng lảng những đám mây hoài cổ thì, nó sẽ khó có được cho nó tính nhân loại!

Cung Trầm Tưởng, ngược lại.

Chẳng những ông công khai ném mình ra “tiền trường” của thổ- ngơi bài thơ với một thời gian, không gian chuẩn xác:

Mưa rơi đêm lạnh Saigon
mưa hay trời khóc đêm tròn tuổi tôi

(“Đêm sinh nhật,” CTT.)

Mà, ông còn đem hình ảnh tạp của đời thường, hợp hôn với những ý niệm siêu hình vào trong thơ của mình, như:

Bãi nhăn nhàu vết lăn xưa
Một xe thổ mộ giờ trơ gỗ gầy.

(“Đất Nghĩa một chiều mưa,” CTT.)

Hoặc:

Quả đào chín vỡ làm đôi,
Tôi nhân tiền sử nằm phơi trần truồng
.”
(“Nấm xanh,” CTT.)

Hoặc nữa:

Bát cơm miếng cháy khê vàng,
Miệng chua khó nuốt, địa đàng khó lê
n.”
(“For rent,” CTT.)

Hay, đời thường một cách nhân loại hơn:

Trời hay thu khóc ủ ê?
Cổ cao áo kín đi về đường tôi
.”
(“Đêm sinh nhật,” CTT.)

Với “cổ cao áo kín đi về đường tôi,” họ Cung đã san bằng khoảng cách giữa thi sĩ và người đọc. Nó là phản ứng tự nhiên của con người (dù ở đâu,) trước thời tiết.

Thêm nữa, mỗi con chữ trong câu thơ “cổ cao / áo kín / đi về / đường tôi,” nếu đứng riêng, chúng là những biểu-ngữ xác tín cá tính chủ thể. Nhưng khi đứng chung trong dòng chảy của một nguồn mạch ngữ nghĩa thì, chúng lại là một liên lập hình ảnh vừa ẩn dụ (metaphor) vừa hoán dụ (metonymy) như một sâu chuỗi lấp lánh tu từ (rhetoric).

Chỉ cần một chút chú ý, người đọc sẽ gặp được rất nhiều những sâu chuỗi lấp lánh tu từ như thế, trong lục bát họ Cung. Thí dụ:

Mình tôi với phố non cao
Tàu như dưới tỉnh núi còn vọng âm
.”
(“Khoác kín,” CTT.)

Hoặc:

Muối nồng vị mặn tình quê
Sóng ôm nguyên gói biển về tặng tôi
.”
(“Quà biển,” CTT.)

Ở đây, tôi xin được mở một ngoặc để nhấn mạnh, bài thơ trên, họ Cung viết từ năm 1962. Nhưng với hai chữ “nguyên gói” thì nó giống như ông mới viết hôm nay, 2012 vậy.)

Cũng vẫn khởi đi từ tài hoa làm mới, làm giầu ngôn ngữ Việt, lục bát Cung Trầm Tưởng thơm tho những sâu chuỗi tu từ, như:

Trời nong chặt nỗi thu phiền
Hồn cây hồng mộc ngợp miền thu Tây
.”
(“Thu ngây,” CTT.)

Hoặc nữa:

Thôi em xanh mắt bồ câu
Vàng tơ sợi nhỏ xin hầu kiếp sau.

(“Kiếp sau,” CTT.)

Ở 2 câu lục bát trong “Thu ngây,” thì “nong” là động từ cụ thể. Trên nguyên tắc “nong” phải đi liền với một bổ túc từ cũng cụ thể. Nhưng Cung Trầm Tưởng đã làm một cuộc cách mạng ngôn ngữ (cho riêng ông.) Khi bổ túc từ theo sau động từ “nong” của ông, lại là một cụm từ trừu tượng: “nong…chặt nỗi ưu phiền.”

Cũng thế, khả năng khoác cho chữ nghĩa một linh hồn mới của họ Cung, còn rõ ràng, dễ nhận thấy hơn nữa, qua câu thơ:

Thôi em xanh mắt bồ câu.

Đơn giản, nếu phải so sánh hay liên tưởng mầu xanh đôi mắt người yêu của mình, người ta thường nghĩ ngay tới mầu xanh đại dương, mầu xanh mây trời…Tôi chưa thấy ai so sánh mầu xanh đôi mắt người yêu của mình với mầu…xanh của mắt…bồ câu! Mặc dù, tới nay, nhân loại chưa phát hiện một loại bồ câu nào có đôi mắt mầu…xanh!

Lại nữa, tôi nghĩ, ngay với thơ lục bát bây giờ, chúng ta cũng khó thấy những câu thơ lãng mạn, pha lẫn chút tự trào, như:

Chờ em anh để râu xanh
Lòng xây bốn bức tường thành giam em.

(“Râu xanh,” CTT)

Hoặc:

Tặng em một gã lo xa,
Vành trăng tươm tất, bình hoa bày bàn.

(“Lẩn thẩn,” CTT)

Cũng như nỗ lực nhân cách hóa đẹp tới bất ngờ, như:

Sóng dâng còn ngấn môi kề
Đêm hôn bãi nhớ, sớm về viễn khơi.

(“Quà biển,” CTT.)

Tuy nhiên, quan trọng hơn, đáng kể hơn nữa, vẫn theo tôi thì, tài hoa và trí tuệ Cung Trầm Tưởng nằm nơi nỗ lực cởi bỏ giới-hạn-không-gian-lục-bát – – Để từ đó, nhân loại tính hiện ra như một cuộc “giải phóng” triệt để, quyết liệt. Chúng tôi xin bạn đọc lại một lần nữa câu thơ:

Vàng tơ sợi nhỏ xin hầu kiếp sau.

Đó là một câu thơ vẫn mang tính liên lập hình ảnh (vừa ẩn dụ, vừa hoán dụ) như một sâu chuỗi lấp lánh tu từ, rất Cung Trầm Tưởng…Nhưng ở phương diện ngữ-nghĩa thì “tóc vàng sợi nhỏ” là một thứ thẻ nhận dạng Tây Phương. Cũng ý đó, cụ thể hơn, một năm sau (năm 1957,) ông viết:

Thôi Diane diễm kiều Âu,
Mẫu hình yểu điệu xin hầu kiếp sau.

(“Kiếp sau nữa,” CTT.)

Tóm lại, Cung Trầm Tưởng không chỉ đi tiếp con đường lục bát Huy Cận mà, ông còn đẩy vận hành của thời kỳ lục bát mới, tới những không gian, những ngữ-cảnh, ngữ-nghĩa mà trước đó, lục bát không hề có.

Nếu không có cuộc “giải phóng” lục bát một cách dứt khoát, quyết liệt của họ Cung, đồng nghĩa với nỗ lực kết thúc chu kỳ vận hành của một thời kỳ lục bát hậu Nguyễn Du, tôi e hôm nay, chưa chắc văn học Việt đã có thể bước qua một thời kỳ lục bát khác nữa, như đã thấy.

Nhìn lại 20 năm văn học, nghệ thuật miền Nam, trong lãnh vực thi ca, chúng ta có khá nhiều nhà thơ thành danh nhờ ứng dụng xuất sắc kỹ thuật, cũng như cải biên (modify) hình ảnh, ý tưởng của một số thi sĩ nổi tiếng của Âu châu – – Nhưng với thể thơ truyền thống, đặc thù lục bát thì, đóng góp của họ Cung cho thể thơ thuần Việt này, là một đóng góp cực kỳ to lớn. Mức độ to lớn ở đây, còn còn được đo định bằng sự kiện có nhiều nhà thơ đã hân hoan đi theo con đường lục bát Cung TrầmTưởng!

Vì thế, nếu lục bát của họ Cung có được coi là một “trường phái” – – “Trường phái lục bát Cung Trầm Tưởng,” thì tôi nghĩ, cũng không là một lời nói quá!

Du Tử Lê

Bài này đã được đăng trong Âm Thanh, Văn học – Nghệ Thuật. Đánh dấu đường dẫn tĩnh.

Bình luận về bài viết này